Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2025

TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ 

1. Niên đại

Trống đồng Ngọc Lũ thuộc văn hóa Đông Sơn, có niên đại vào khoảng 2000 đến 2500 năm trước, tức khoảng thế kỷ V đến thế kỷ I trước Công nguyên. Đây là giai đoạn người Việt cổ đã phát triển nền văn minh lúa nước, hình thành tổ chức xã hội có phân tầng rõ rệt, và sở hữu đời sống văn hóa - tín ngưỡng phong phú.

2. Chất liệu chế tác

Trống được chế tác bằng hợp kim đồng thông qua kỹ thuật đúc liền khối, thuộc dạng khuôn sáp mất (lost-wax casting), thể hiện trình độ kỹ thuật đúc đồng rất cao thời bấy giờ. Bề mặt trống được phủ lớp pa-tin màu xanh ngả xám do quá trình oxy hóa tự nhiên kéo dài trong môi trường chôn lấp.

3. Hình thức và hoa văn

Về kích thước, trống có đường kính mặt là 79,3 cm, cao 63 cm, đường kính chân là 80 cm và nặng khoảng 86 kg. Hình dáng trống gồm ba phần chính: mặt trống hơi loe ra ngoài tang, tang trống nở phình, thân trụ đứng và chân trống loe nhẹ hình nón cụt. Bốn quai trống chia thành hai cặp gắn đối xứng trên tang và thân, có trang trí hoa văn dạng thừng tết.

Hoa văn trang trí trên trống vô cùng phong phú và tinh xảo, bao gồm hai nhóm chính: hoa văn hình học và hoa văn tả thực (hình người, động vật, đồ vật). Mặt trống là ngôi sao nổi 14 cánh nằm ở trung tâm, xen kẽ các cánh sao là họa tiết lông đuôi chim công. Bao quanh là 16 vành hoa văn đồng tâm, mỗi vành có đặc điểm riêng: các vành 1, 5, 11, 16 là hàng chấm nhỏ; các vành 2, 4, 7, 9, 13, 14 là vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; vành 3 là hoa văn chữ ∫ gãy khúc nối tiếp; các vành 6, 8 và 10 là những vành chủ đạo thể hiện cảnh sinh hoạt, lễ hội; các vành 12 và 15 là hoa văn răng cưa.

Trong đó, vành 6 nổi bật với năm nhóm cảnh sinh hoạt đặc sắc: cảnh người nhảy múa đội mũ lông chim, cầm giáo, rìu hoặc nhạc cụ; cảnh người hành lễ trong nhà cầu mùa; cảnh đôi nam nữ giã gạo; cảnh nhà sàn mái cong có chim đậu trên nóc và người hát giao duyên; cảnh nhóm người ngồi đánh trống đồng. Vành 8 mô tả 20 con hươu đực - cái xen kẽ và 14 con chim lạc bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Vành 10 thể hiện 36 con chim chia đều thành hai nhóm: 18 con bay và 18 con đậu, được thể hiện rất sống động với đặc điểm chi tiết như mỏ dài, mỏ ngắn, đuôi, chân, tư thế bay hoặc đậu.

Tang trống có 10 vành hoa văn hình học, trong đó các vành 1, 6, 8, 10 là vòng tròn chấm nhỏ; vành 2 và 5 là văn răng cưa; vành 3 và 4 là vòng tròn chấm giữa nối với nhau bằng tiếp tuyến song song. Đặc biệt, vành 7 mô tả hình ảnh người hóa trang lông chim đua thuyền và các chiến thuyền đang di chuyển. Có sáu thuyền chiến được mô tả, mỗi thuyền có số lượng người khác nhau, bao gồm người chỉ huy đánh trống, chiến binh cầm giáo, rìu, cung nỏ, tù binh bị kéo lê hoặc hành hình, chó săn, bình đồng và trống đồng đặt úp dưới sàn.

Thân trống có 10 vành hoa văn, chia thành tám ô dọc. Mỗi ô có hai chiến binh đầu đội mũ lông chim, tay cầm mộc và rìu trong tư thế múa chiến đấu. Ngoài ra còn có hoa văn chữ V lồng nhau, hoa văn chấm, hoa văn vòng tròn đồng tâm tiếp tuyến. Các hoa văn này thể hiện rõ tư duy hình học và thẩm mỹ cao.

Chân trống không có hoa văn, được làm trơn nhẵn. Hình dạng nón cụt mở rộng đóng vai trò là nơi thoát âm thanh. Rìa mặt trống có các vết lõm nhỏ là dấu tích còn lại của con kê trong quá trình đúc, phản ánh kỹ thuật đúc tinh vi của người xưa.

4. Tình trạng bảo quản

Trống đồng Ngọc Lũ hiện còn trong tình trạng tương đối nguyên vẹn. Không có dấu hiệu nứt vỡ hay mất mát bộ phận. Lớp pa-tin màu xanh xám bao phủ đều bề mặt cho thấy sự ổn định về môi trường và điều kiện chôn lấp tự nhiên. Một số vết lõm nhỏ trên rìa mặt trống là dấu vết kỹ thuật của quá trình đúc, không phải là tổn hại vật lý.

5. Nguồn gốc phát hiện

Trống được phát hiện vào năm 1893 trong quá trình đắp đê Trần Thủy tại xã Như Trác, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Sau khi phát hiện, trống được đưa về thờ tại đình làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục. Đến tháng 4 năm 1903, trống được Viện Viễn Đông Bác cổ sưu tầm và chuyển về lưu giữ tại Bảo tàng Louis Finot, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, tại Hà Nội.

6. Giá trị văn hóa – tinh thần

Trống đồng Ngọc Lũ là một nhạc khí quan trọng trong đời sống tâm linh và sinh hoạt cộng đồng của cư dân Đông Sơn. Trống được dùng trong các nghi lễ lớn như lễ hội cầu mùa, lễ tang, tế lễ thần linh và là biểu tượng quyền lực của thủ lĩnh. Những hình ảnh khắc họa trên trống phản ánh chân thực đời sống xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng, góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa Việt cổ.

7. Tính độc đáo – hiếm có

Trống đồng Ngọc Lũ được giới nghiên cứu đánh giá là chiếc trống đẹp nhất, tinh xảo nhất, nguyên vẹn nhất trong số hàng ngàn trống đồng Đông Sơn từng được phát hiện. Không có chiếc trống nào hoàn toàn giống với Ngọc Lũ về bố cục, kích thước, độ cân đối và mức độ chi tiết hoa văn. Trống được xếp loại HI (loại I) theo phân loại của học giả người Áo F. Hesger, và thuộc kiểu A1 theo phân loại của các học giả Việt Nam – là kiểu hình tiêu biểu nhất cho trống Đông Sơn.

8. Kỹ thuật thủ công

Trống đồng Ngọc Lũ thể hiện trình độ kỹ thuật luyện kim và tạo khuôn đúc đồng đỉnh cao của cư dân Đông Sơn. Việc đúc trống liền khối với khối lượng lớn và hoa văn dày đặc, chi tiết cho thấy kỹ năng chế tác thủ công rất tinh vi. Các họa tiết tả thực sống động, bố cục hoa văn hợp lý, đường nét sắc sảo phản ánh khả năng tư duy hình học, mỹ thuật và hiểu biết thiên văn học của người xưa. Trống không chỉ là nhạc khí mà còn là tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, mang giá trị biểu tượng và văn hóa sâu sắc của dân tộc Việt Nam.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TƯỢNG 2 NGƯỜI CÕNG NHAU THỔI KHÈN

  Tượng hai người cõng nhau thổi khèn – Bảo vật quốc gia thời Đông Sơn - Niên đại:  Tượng hai người cõng nhau thổi khèn là một hiện vật đặ...